2 Apr 2014

Cát của Sahara

Ở Sahara có bão cát. Bão cát mạnh tới mức những bông cát nhỏ xíu bay tới tận London, phủ một lớp lưa thưa trên đường, trên mui xe, trên nắp thùng rác, trên mái nhà. Tôi không có tính quan sát, tất nhiên là không thể nhìn thấy cát; chỉ đến khi đọc báo mới biết là đêm qua, cát của Sahara phủ đầy nước Anh. Tôi thầm tiếc vì mình không nhìn thấy những hạt cát ấy, không chứng kiến sự đẹp đẽ ấy.



Tất nhiên là đẹp đẽ. Cái ý niệm cơn bão cát cuồng nộ trên sa mạc Sahara, hung hãn, hoang dã, cưỡi gió vượt qua vạn dặm châu Phi, rồi châu Âu, ngắm bao nhiêu là cảnh đẹp đẽ trên đường, nào là Marakech huyên náo, nào là Địa Trung Hải trong xanh, nào là Tuscany tình ái, rẽ ngược rẽ xuôi sà vào Bruges xinh đẹp, Paris vàng nắng, qua kênh đào, rồi nằm xuống có khi là khu Kensington thượng hạng, hoặc nắp thùng rác Brixton, là một ý niệm quá sức lãng mạn và đẹp đẽ, rồi lại có thêm tí phiêu lưu, không hiểu sao có thêm cả tí buồn.

Y như truyện của Andersen vậy

"Bà chúa Tuyết mỉm cười. Kay cảm thấy sự hiểu biết của mình chưa vào đâu, và đưa mắt nhìn ra khoảng không bao la. Gió bão rít lên điên cuồng nghe như có tiếng vọng những bài hát cổ. Họ vượt qua nhiều rừng rậm, hồ ao, biển cả và đất đai. Một luồng gió lạnh như băng thổi dưới chân họ, chó sói hú vang, tuyết lóng lánh, quạ đen vừa bay vừa kêu ran. Ban đêm trăng lấp lánh, chiếu khắp bầu trời. Ban ngày Kay ngủ dưới chân bà Chúa Tuyết. "

Nhưng mà truyện cát của Sahara ở London là có thật, và tôi cứ nghĩ mãi về nó. Tại sao? Tôi có vài giả thuyết như sau:

1. Nàng tin chắc giữa anh và nàng có một sự liên hệ không thể cắt bỏ. Rất lâm ly Quỳnh Dao, nàng biết chứ, nhưng nàng không thể dứt suy nghĩ ấy ra khỏi đầu.

Anh và nàng chưa bao giờ chính thức là người yêu của nhau. Hai người có thích nhau, rất thích là đằng khác, có hôn hít một vài lần, anh có lần còn luồn tay vào lưng áo nàng vuốt ve tấm lưng trần không bao giờ vướng dây áo lót. Nhưng mà anh và nàng nhất quyết không phải người yêu. Cách nào đó, hai người luôn quay cuồng với những mối quan hệ khác, với bài vở, với những buổi tụ tập bạn bè riêng, theo cách hai thế giới không chung một vòng quay.

Rồi anh chuyển sang thành phố khác, nàng chuyển đi một thành phố khác nữa. Anh có người yêu, đính hôn, cưới vợ. Nàng ngủ với vài người đàn ông, đôi người đàn bà, vác theo con mèo già vẫn tận tụy sống cùng nàng ngày này qua tháng khác. Anh và nàng chẳng bao giờ nói chuyện lại với nhau, nhưng sự liên hệ không thể biến mất.

Sáng nay, khi đài báo những hạt cát của Sahara bay sang tận châu Âu, nàng đột nhiên nghĩ đến anh. Nàng tự nghĩ, có phải khi người ta đã quen nhau, biết nhau, cái phân tử tinh tiết của cảm giác trao đổi giữa hai người nó sẽ ở mãi đấy. Dù là nàng có xa anh mười hai năm trời, ba thành phố, như nàng xa những người đàn ông và đôi người đàn bà khác nửa trái đất hay hai dãy phố, cái hạt cảm xúc đã cọ xát ấy từ nàng vẫn còn trong họ, bị hút vào những hạt họ thu thập từ người khác, và những người đàn ông đàn bà kia, không là gì khác ngoài một tập hợp những hạt tinh tiết từ người khác; và ngược lại. Dù có xa đến mấy, dù không bao giờ gặp lại, nó cũng sinh ra từ nàng, là của nàng, giống như những hạt cát rải khắp châu Âu kia dù cuối cùng có lọt xuống cống hay theo dòng ra biển cả, chúng cũng là cát của Sahara.

Nhất quyết không thể khác được.

2. Ông đã xa thành phố nhiều hồ từ rất lâu, qua bao mùa khô ướt, cả tuyết rơi bão phủ trời đất âm u trọn mười tháng mười ngày, cả đọng cạn khô cằn con kiến cũng nứt đôi mà chết.

Ông ngồi trong căn chòi nhỏ của mình, giữa mênh mang thế giới, miệt mài miết những bình cổ cao trên bàn quay. Ông không ăn, có dễ chừng từ một trăm năm mươi năm trước. Ông hứng nước mưa bằng cây sậy, từng giọt tí tách từ mái nhà; nhấm ướt môi khi kiệt sức, và chỉ một nhấm là đủ ba tháng.

Thế giới nhăn nhúm sát nhập nơi căn chòi của ông, cuồng nộ lấn chiếm nhau nơi căn chòi của ông, lả lướt bình yên nơi căn chòi của ông. Căn chòi của ông, dựng ngay giữa tâm nơi các bản song song của cùng một thế giới gặp gỡ. Ông bằng yên với nơi này: nó giữ cho thành phố nhiều hồ của ông nguyên lành trong ký ức. Mười năm, ba mươi năm, bốn trăm ba mươi lăm năm, miết được cái bình cổ cao nào ông thả vào nơi các bản thế giới song song gặp nhau; những chiếc bình biến mất, những mảnh vụn được từng bản song song tha lôi đi vào chốn nào đó thinh hư ông không hề vương vấn.

Ba ngàn ba trăm ba mươi năm lẻ ba ngày, đất trời sầm sộ, gió thốc cửa chòi, quất vào những bụi li ti, phủ khắp râu ria, kẽ tay kẽ chân ông một lớp ran rát. Cái bình cao cổ đang miết dở chốc trở nên sần sùi bởi bụi bám chặt vào mặt đất sét còn đang mềm mịn. Ông ngạc nhiên, bởi loại bụi này ông biết chỉ có ở thành phố nhiều hồ. Ông vuốt chân mày, rũ chòm râu, cậy những hạt liti bám dưới đầu móng tay. Ông đựng chúng vào một bát thủy tinh, chờ đủ một tháng mới thấy mặt trời ló ra. Khi mặt trời chiếu lòa miệng bát, soi qua những hạt bụi, để lại bóng lấm tấm trên sàn nhà, ông nhận ra rằng những hạt bụi này không những đến từ thành phố đầy hồ, mà còn là chính những hạt bụi của ba ngàn ba trăm ba mươi năm lẻ ba ngày cộng một tháng trước đó. Chúng không mất đi, không thay đổi, chỉ chuyển hóa và cách nào đó gặp chính ông, cùng những chiếc bình cao cổ.

Ông để lại cái bình sần sùi dang dở, vĩnh viễn bám những hạt bụi đến từ quá khứ, gài then cửa chòi và đi về hướng những thành phố nhiều hồ.

"Vừa lúc ấy vừng dương nhô lên khỏi mặt biển. Những tia nắng ấm áp, dịu dàng, chiếu trên đám bọt lạnh ngắt và nàng tiên cá cảm thấy mình chưa chết. Nàng trông thấy vừng dương sán lạn. Trên mặt nước hàng trăm sinh vật đang bay lượn và ca hát. Qua thân hình trong vắt của những sinh vật ấy, nàng nhìn thấy những cánh buồm trắng của con tàu trên nền trời đỏ rực."


Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...